
Thông tin tuyên truyền
SÀNG LỌC UNG THƯ CỔ TỬ CUNG Ở PHỤ NỮ
SÀNG LỌC UNG THƯ CỔ TỬ CUNG Ở PHỤ NỮ
Ung thư cổ tử cung (UTCTC) là bệnh lý ác tính của biểu mô lát (biểu mô vảy) hoặc biểu mô tuyến cổ tử cung, thường gặp từ độ tuổi 30 trở lên, đứng hàng thứ hai trong các ung thư sinh dục ở nữ giới về tỷ lệ mắc cũng như tỷ lệ tử vong.
Nhiễm một hoặc nhiều týp Human Papillomavirus (HPV) nguy cơ cao đã được khẳng định là nguyên nhân tiên phát của UTCTC. HPV là tác nhân truyền qua đường tình dục. Nguy cơ nhiễm HPV ít nhất 1 lần trong đời của người phụ nữ là khoảng 80%, với tỷ lệ nhiễm cao nhất xảy ra trong độ tuổi 20-30, có thể lên đến 20-25% trong quần thể. Sau lần nhiễm HPV đầu tiên, khoảng 5-10% các trường hợp có thể hình thành các biến đổi ở cổ tử cung do HPV. Đại đa số các trường hợp nhiễm HPV sẽ tự khỏi. Nếu người phụ nữ nhiễm HPV nguy cơ cao và phối hợp với các yếu tố nguy cơ khác, tổn thương ban đầu có thể tồn tại và tiến triển trong khoảng 10 - 20 năm qua các giai đoạn tân sản nội biểu mô để hình thành ung thư cổ tử cung xâm lấn.
Theo dữ liệu của Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế vào năm 2020, trên toàn thế giới khoảng 604.127 phụ nữ có chẩn đoán mắc bệnh UTCTC và khoảng 341.831 phụ nữ đã chết vì căn bệnh này. Thống kê của GLOBOCAN năm 2020 Việt Nam có khoảng 4.132 phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh UTCTC mới và số tử vong khoảng 2.223 phụ nữ.
Ung thư cổ tử cung là bệnh nguy hiểm nhưng nếu được phát hiện sớm và xử trí kịp thời có thể gần như điều trị khỏi hoàn toàn, qua đó có thể làm giảm tử vong và gánh nặng cho gia đình và xã hội. Do khoảng thời gian hình thành và tồn tại tổn thương tiền ung thư ở cổ tử cung tương đối dài; yếu tố nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ đã được xác định; mặt khác cổ tử cung là bộ phận có thể tiếp cận trực tiếp để quan sát, thăm khám, lấy bệnh phẩm và thực hiện các can thiệp điều trị nên đại đa số các trường hợp UTCTC có thể được phòng ngừa bằng cách sàng lọc, phát hiện sớm và điều trị các thương tổn tiền ung thư. Các phương pháp tầm soát UTCTC như phương pháp phết tế bào CTC (Pap smear), quan sát CTC bằng mắt thường với dung dịch Acid acetic 3-5% (Phương pháp VIA), phương phá quan sát với Lugol Iodine (phương pháp VILI), xét nghiệm HPV (HPV DNA testing) ...
Hiện nay một số test chẩn đoán có thể phát hiện các týp HPV nguy cơ cao sinh ung thư, chúng có thể được sử dụng trong lâm sàng như là phương pháp sàng lọc đầu tay riêng biệt hoặc phối hợp với phương pháp khác. Nếu test HPV (-) gần như không có nguy cơ hình thành CIN 3 trong vòng 5 năm sau đó. Điều này cho phép giãn thời gian sàng lọc và giảm số lần sàng lọc trong cuộc đời người phụ nữ.
Xét nghiệm tế bào học cổ tử cung là phương pháp thường dùng nhất để sàng lọc ung thư cổ tử cung, đã được y giới toàn cầu thừa nhận từ nhiều thập niên qua do thoả mãn các điều kiện: độ nhạy khá, có thể lặp lại nhiều lần và đã chứng minh được tính hữu hiệu khi hạ thấp tần suất ung thư xâm lấn cổ tử cung ở các nước phát triển. Điều kiện xét nghiệm xét nghiệm tất cả phụ nữ đã có quan hệ tình dục trong độ tuổi 21-65, ưu tiên cho nhóm nguy cơ cao (30-50 tuổi).
Trong chương trình tầm soát UTCTC, làm tế bào học hàng loạt là xét nghiệm đã được sử dụng để sàng lọc phát hiện sớm các tổn thương tiền ung thư nhưng còn nhiều điểm hạn chế khi thực hiện ở các nước đang phát triển, nơi đang còn thiếu thốn hạ tầng kỹ thuật và nhân lực được huấn luyện. Trong những năm gần đây người ta đã nghiên cứu và bước đầu đề xuất một phương pháp bổ sung/thay thế, đó là quan sát cổ tử cung sau bôi acid acetic và Lugol (Visual Inspection with Acetic acid - VIA, Visual Inspection with Lugol's Iodine -VILI), đây là các phương pháp dễ thực hiện và có nhiều triển vọng trong việc áp dụng tầm soát và phòng chống ung thư cổ tử cung theo hướng cộng đồng. Phương pháp quan sát cổ tử cung sau bôi acid acetic và Lugol được chỉ định cho các đối tượng phụ nữ trong độ tuổi 21 - 65, đã có quan hệ tình dục. Ưu tiên cho phụ nữ trong độ tuổi 30-50. Phụ nữ có kết quả tế bào cổ tử cung hoặc Via/Vili âm tính sẽ được sàng lọc lại sau 2 năm.
Năm 2024, Tiền Giang có 96.676 lượt phụ nữ đến khám và điều trị phụ khoa. Trong đó thực hiện xét nghiệm Pap's smear 5.121 cas; xét nghiệm HPV 1.264 cas; phương pháp quan sát CTC bằng Via/Vili 31.818 cas.
Hình ảnh khám phụ khoa cộng đồng tại một xã của huyện Tân Phú Đông
Tổ chức Y tế thế giới dự báo nếu không có các can thiệp sàng lọc, dự phòng và điều trị ung thư cổ tử cung thì trong khoảng 10 năm nữa, tỷ lệ mắc mới và chết do ung thư cổ tử cung sẽ tăng thêm 25%.
Hiện nay xã hội phát triển, người dân trở nên thành thạo và quen với việc sử dụng Internet, điện thoại thông minh, Youtube, Facebook, Instagram, Twitter thì việc xây dựng các đoạn quảng cáo ngắn, truyện ngắn, và tin nhắn ngắn ở định dạng văn bản, các tờ thông tin về tầm soát UTCTC có thể được đặt ở trang đầu trên các trang web. Bên cạnh đó, địa phương cần phối hợp với các đài phát thanh, truyền hình nhằm xây dựng các chiến dịch giáo dục cho phụ nữ trong cộng đồng như phát sóng những buổi tọa đàm tiếp xúc trực tiếp với các nhà cung cấp dịch vụ y tế để được tư vấn trực tiếp, đặt lịch hẹn đến khám tầm soát UTCTC, giúp tăng tỷ lệ phụ nữ chủ động trong các biện pháp phòng ngừa UTCTC./.
ThS. Lê Thị Kim Cúc
Thông báo
Văn bản mới
Album trang chủ



Bản đồ
Thống kê truy cập website
  Đang truy cập : 4
  Hôm nay: 42
  Tổng lượt truy cập: 313777